Tháo gỡ khó khăn, bảo vệ doanh nghiệp sản xuất thép trong nước
18/07/2024Sản xuất thép thô của Việt Nam hiện đứng vị trí thứ 13 thế giới và đứng đầu khu vực ASEAN. Tuy nhiên, ngành thép hiện nay gặp nhiều khó khăn do sự sụt giảm của ngành bất động sản dẫn đến nhu cầu thép đầu vào giảm; giá nguyên liệu tăng khiến chi phí sản xuất cao; tồn kho thép ở mức cao, doanh nghiệp thiếu đơn hàng… ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống công nhân, người lao động.
Sáng 15/6, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị trực tuyến về tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ xi măng, sắt thép và vật liệu xây dựng.
Đối với mảng sắt thép, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết: Ngành công nghiệp thép Việt Nam thời gian vừa qua đã có nhiều phát triển rõ nét. Quy mô sản xuất ngày càng được mở rộng, từng bước đáp ứng thị trường trong nước và gia tăng xuất khẩu. Sản xuất thép thô, thép xây dựng, thép cán nguội đã đáp ứng hầu như toàn bộ nhu cầu trong nước. Riêng sản xuất thép thô của Việt Nam hiện đứng vị trí thứ 13 thế giới và đứng đầu khu vực ASEAN.
Sản xuất thép thô Việt Nam đứng đầu khu vực ASEAN
Việt Nam đã phát triển được công nghệ sản xuất lò cao luyện gang với dung tích lớn hơn 2000m3 và có thể cạnh trạnh được với các sản phẩm thép từ các lò cao dung tích tương tự của các cường quốc thép như Trung Quốc và đã có thể sản xuất thép cán nóng từ năm 2017; các doanh nghiệp sản xuất thép xây dựng, tôn mạ và sơn phủ màu, thép cán nguội, ống thép đã từng bước chiếm thị phần cao hơn thị trường trong nước … góp phần hạn chế sự phụ thuộc vào thép nhập khẩu. Khối lượng nhập khẩu thép giảm từ 22,38 triệu tấn năm 2016 xuống còn 13,49 triệu tấn năm 2022.
Cơ cấu sản xuất thép chuyển dịch tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng sản lượng thép cán và giảm tỷ trọng sản lượng thép hình. Đây là tín hiệu tốt khi thép cán là sản phẩm đòi hỏi đặc tính kỹ thuật cao hơn thép hình, là đầu vào của nhiều ngành cơ khí, chế tạo, trong khi thép hình là đầu vào chủ yếu của ngành xây dựng.
Xuất khẩu tăng trưởng tốt và chuyển dịch tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng xuất khẩu sang các thị trường có yêu cầu cao về thông số kỹ thuật, chất lượng và các tiêu chuẩn về môi trường như Mỹ, EU và một số nước châu Á-Thái Bình Dương. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng các mặt hàng có hàm lượng chế biến chế tạo (thép cán và thép hình) và giảm tỷ trọng xuất khẩu mặt hàng thép nguyên liệu.
Trong bối cảnh phải cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp trong nước vẫn tiếp tục chiếm ưu thế trong sản xuất thép hình (chiếm trên 60% tổng sản lượng sản xuất trong nước) và thép hợp kim (trên 70%).
Thiếu hụt sản phẩm thép chất lượng cao
Tuy nhiên, Bộ trưởng cũng thẳng thắn nhìn nhận: Ngành thép hiện nay gặp nhiều khó khăn do cầu thế giới và tăng trưởng kinh tế trong nước vẫn chưa phục hồi hoàn toàn so với giai đoạn trước đại dịch, đặc biệt là sự sụt giảm của ngành bất động sản dẫn đến nhu cầu thép đầu vào cho sản xuất các ngành công nghiệp xây dựng và xuất khẩu giảm; giá nguyên liệu tăng khiến chi phí sản xuất cao; tồn kho thép lưu thông ngoài thị trường còn ở mức cao, đặc biệt là tại thị trường Trung Quốc dẫn đến gia tăng tồn kho số lượng lớn, doanh nghiệp thiếu đơn hàng… ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống công nhân, người lao động.
Ngoài các vấn đề mang tính thời điểm, ngành thép còn có những điểm nghẽn mang tính dài hạn. Năng lực sản xuất còn hạn chế, Việt Nam tiếp tục là quốc gia nhập siêu về thép. Sản xuất thép thô mới cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất trong nước, còn thiếu hụt sản phẩm thép chất lượng cao, thép kỹ thuật.
Việt Nam vẫn tiếp tục nhập khẩu thép cán (chiếm trên 50% tổng kim ngạch nhập khẩu), trong đó chủ yếu là thép cán nóng. Từ 2017 đến nay, Việt Nam đã sản xuất được thép cán nóng với sản lượng ngày một tăng, chiếm tỷ trọng cao, tuy nhiên mới chỉ đáp ứng khoảng 50% nhu cầu thị trường trong nước. Ngoài ra, Việt Nam vẫn tiếp tục phải nhập khẩu thép hình, một số sản phẩm tôn mạ kim loại và sơn phủ màu (chiếm khoảng 20-25% nhu cầu tiêu dùng trong nước).
Ngành thép phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu nước ngoài (thép phế liệu, than cốc, quặng sắt, phôi thép, và các sản phẩm khác…), đặc biệt là trong sản xuất thép thô dẫn đến tình trạng bị động về giá, khi giá nguyên liệu đầu vào biến động thì giá thép trong nước cũng phải điều chỉnh theo.
Công nghệ sản xuất vẫn còn hạn chế. Ngoại trừ một số khu liên hợp gang thép mới hình thành thời gian gần đây có công nghệ khép kín từ thượng nguồn có công suất thuộc nhóm trung bình cao của thế giới như Khu liên hợp gang thép Hưng Nghiệp Fomosa, Dung Quất… phần lớn các đơn vị sản xuất còn lại có quy mô nhỏ (dưới 0,5 triệu tấn/năm), sử dụng công nghệ không khép kín, lạc hậu, tiêu hao nhiều năng lượng nên khả năng cạnh tranh thấp và gây ô nhiễm môi trường.
Đáng nói, Bộ trưởng cũng cho biết, thép là một trong những mặt hàng bị điều tra phòng vệ thương mại nhiều nhất trên thế giới.
Theo số liệu thống kê của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tính đến hết tháng 6/2022, các quốc gia và vùng lãnh thổ đã tiến hành khoảng 2.500 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại với các sản phẩm kim loại cơ bản (bao gồm thép), chiếm tới hơn 30% tổng số vụ việc điều tra phòng vệ thương mại.
Tính đến hết tháng 5/2024, trong tổng số 252 vụ việc nước ngoài điều tra phòng vệ thương mại với Việt Nam có khoảng 30% vụ việc liên quan các sản phẩm thép. Các sản phẩm thép bị điều tra khá đa dạng, gồm thép mạ, thép không gỉ cán nguội, thép phủ màu, ống thép, mắc áo bằng thép, đinh thép,… Những vụ kiện này hầu hết xảy ra ở các thị trường xuất khẩu thép chủ lực của Việt Nam như Hoa Kỳ, EU, Úc…, trong đó Hoa Kỳ là nước điều tra nhiều nhất với Việt Nam.
Gần đây nhất, sau một thời gian dài không không sử dụng biện pháp phòng vệ thương mại trực diện với Việt Nam, vào tháng 8/2023, EU đã tiến hành điều tra chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại đối với thép không gỉ cán nguội Việt Nam với cáo buộc lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại đang áp dụng đối với Indonesia.
Ngành sản xuất thép trên toàn thế giới ước tính chiếm 7% tổng lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính toàn cầu. Hiện nay, các quy định về tính bền vững ngày càng chặt chẽ hơn, đặc biệt là giảm khí thải trong quá trình sản xuất. Liên minh Châu u (EU) đã thông báo áp dụng chính sách Cơ chế Điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), đánh thuế carbon đối với các nhà sản xuất xuất khẩu đến thị trường này, bao gồm cả sản phẩm thép, chính sách sẽ được chính thức áp dụng từ tháng 1/2026.
Nguy cơ mất thị trường nội địa
Ông Nghiêm Xuân Đa, Chủ tịch Hiệp hội thép Việt Nam (VSA) nhận định, với đà phục hồi hiện nay, dự báo sản xuất thép thành phẩm năm 2024 có thể đạt 30 triệu tấn, tăng 7% so với năm 2023. Tuy nhiên, sự phục hồi này không chắc chắn và các doanh nghiệp thép còn gặp nhiều khó khăn.
Khó khăn đầu tiên mà ông Đa nói đến đó là việc Trung Quốc tiếp tục gia tăng xuất khẩu thép, các nhà sản xuất thép Việt Nam đối diện với nguy cơ mất thị trường nội địa. Theo thống kê của Hải quan Trung Quốc, 5 tháng đầu năm 2024, Trung Quốc xuất khẩu 45 triệu tấn thép, tăng 25% so với cùng kỳ năm 2023. Thép Trung Quốc tiếp tục ồ ạt vào thị trường Việt Nam. Riêng 4 tháng đầu năm 2024, nhập khẩu thép hơn 5,4 triệu tấn, tăng 42% so với năm trước. Trong đó, Việt Nam nhập khẩu thép từ Trung Quốc 3,7 triệu tấn, chiếm 68% tổng lượng nhập khẩu.
Sự gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ sản xuất trên toàn thế giới khi các nước đều tăng cường các “hàng rào” kỹ thuật, phòng vệ thương mại ngăn cản thép nhập khẩu để bảo vệ sản xuất trong nước cũng là lực cản không nhỏ đối với việc xuất khẩu thép cuả Việt Nam hiện nay.
“Thêm vào đó, tình trạng “cung vượt cầu” của nhiều sản phẩm thép trong nước cùng sự gia tăng thép nhập khẩu sẽ làm cho sự cạnh tranh về gía cả mặt hàng thép thành phẩm nội địa trở nên khốc liệt hơn. Thị trường thế giới nhiều bất ổn, giá cước vận tại quốc tế tăng…cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các doanh nghiệp ngành thép”, ông Nghiêm Xuân Đa nói.
Trước những khó khăn hiện nay, Hiệp hội Thép Việt Nam đã kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các cơ quan liên quan tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn quản lý kỹ thuật, quản lý chất lượng, hàng rào kỹ thuật nhằm ngăn ngừa các sản phẩm thép không đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn và môi trường tràn vào thị trường Việt Nam. Bộ Công Thương kịp thời áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại (biện pháp tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, lẩn tránh thương mại) nhằm ngăn ngừa hành vi cạnh tranh không lành mạnh, bảo vệ sản xuất trong nước.
Đồng thời, đẩy nhanh đồng bộ các kênh kích cầu đối với sản phẩm thép như thị trường bất động sản, thị trường xây dựng, chương trình xây dựng 1 triệu nhà ở xã hội, đẩy mạnh đầu tư công…
Hiệp hội thép Việt Nam đề nghị Bộ Công Thương tiếp tục hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu thép ứng phó kịp thời hiệu quả các vụ việc phòng vệ thương mại đối sản xuất thép ở nước ngoài. Bộ Công Thương cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng, trình Chiến lược phát triển công nghiệp thép Việt Nam đến 2030, tầm nhìn 2050, gắn với các chính sách đặc thù cho ngành thép tăng trưởng xanh và bền vững. Trong thời gian, chưa có Chiến lược phát triển ngành thép, cần có biện pháp quản lý đầu tư các dự án thép có quy mô lớn nhằm kiểm soát cân đối cung cầu, tránh lãng phí tài nguyên, vốn đất đai, bảo vệ môi trường giảm phát thải khí nhà kính, chuyển đổi sản xuất tiêu thụ xanh
Hiệp hội Thép đề nghị Ngân hàng Nhà nước sớm có chính sách ổn định tỷ giá, duy trì giá điện hợp lý, ưu đãi lãi suất vay vốn đầu tư với dự án thép có quy mô lớn bởi do đặc thù các dự án sản xuất thép cần chi phí đầu tư lớn, thời gian hu hồi vốn dài.
Hiệp hội đề nghị các đơn vị liên quan sớm nghiên cứu giải pháp và các gói tài chính xanh hỗ trợ doanh nghiệp thép chuyển đổi xanh theo Chiến lược Quốc gia về biến đổi khí hậu và cam kết của Chính phủ tại COP26.
Lắng nghe và tháo gỡ khó khăn
Trả lời kiến nghị của Hiệp hội Thép Việt Nam, đại diện Ngân hàng Nhà nước khẳng định: Các ngân hàng luôn sẵn sàng đủ vốn để doanh nghiệp ngành thép, xi măng và vật liệu xây dựng vay khi có nhu cầu về vốn với những dự án khả thi. Tỉ giá hiện nay đang có dao động, nhưng vấn đề tỉ giá đang được Ngân hàng Nhà nước kiểm soát tốt.
Đối với việc giãn/hoãn nợ, Ngân hàng Nhà nước vừa công bố dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 02/2023/TT-NHNN (Thông tư 02) quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn. Thời gian hoãn/giãn nợ sẽ tiếp tục kéo dài đến hết năm 2024. Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục có hội nghị sâu hơn nữa về việc tháo gỡ khó khăn tín dụng cho các doanh nghiệp ngành thép, xi măng theo đúng tinh thần chỉ đạo của Chính phủ ‘lợi ích hài hoà, rủi ro chia sẻ”, đại diện Ngân hàng Nhà nước thông báo.
Đại diện Bộ Tài chính đồng tình với ý kiến của Hiệp hội Thép Việt Nam về việc cần thiết phải áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại phù hợp để bảo vệ doanh nghiệp sản xuất trong nước. Theo đó, đối với thuế xuất nhập khẩu cần điều chỉnh theo hướng tăng dần, đầu vào ở mức thấp còn với các sản phẩm tinh hơn sẽ áp thuế cao hơn góp phần tạo ra rào cản pháp lý bảo vệ doanh nghiệp sản xuất trong nước.
Đối với đề nghị sử dụng cầu cạn thay thế sử dụng cát làm vật liệu đắp nền đường cao tốc, Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Duy Lâm cho biết: Việc sử dụng cầu cạn có nhiều lợi thế khi không cần sử dụng đất cát đắp nền lớn và hỗ trợ tiêu thụ được khối lượng lớn xi măng, sắt thép. Trên thực tế, Bộ GTVT đã sử dụng cầu cạn cho nhiều dự án cao tốc và cũng cân nhắc kỹ càng khi lựa chọn giải pháp thi công nào. Đơn cử như với cao tốc Quy Nhơn-Chí Thạnh có 13km cầu cạn, song, phương án sử dụng cầu cạn đắt hơn 2,6 lần so với đắp nền thông thường và thời gian sử dụng cũng ngắn hơn.
Đối với việc nghiên cứu xây dựng đường cao tốc trên cầu cạn tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long thay cho xây dựng đường cao tốc trực tiếp trên nền đất yếu, Thứ trưởng Bộ GTVT cho biết, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ GTVT nghiên cứu nghiêm túc, toàn diện về kỹ thuật, kinh tế, xã hội, môi trường ngay từ bước chuẩn bị đầu tư để so sánh, quyết định, như: sử dụng công trình cầu cạn toàn bộ tuyến; kéo dài cầu vượt sông để giảm chiều cao đắp đầu cầu; xử lý lún bằng cọc Xi măng đất, sàn giảm tải… Tuy nhiên, việc sử dụng các giải pháp chi phí có thể làm tăng giá thành toàn bộ dự án. Do đó, Bộ GTVT đang thực hiện tính toán và lựa chọn nhiều giải pháp phù hợp trên tinh thần ưu tiên sử dụng cầu cạn thay thế đối với khu vực nền đất yếu.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên thông tin: Để tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho ngành thép, Bộ Công Thương đang xây dựng và dự kiến sẽ sớm trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển ngành thép Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Bộ cũng đang hoàn tất dự thảo để báo cáo Chính phủ trình Quốc hội ban hành Luật phát triển công nghiệp trọng điểm. Theo đó, mục tiêu dài hạn là phát triển ngành công nghiệp thép trở thành ngành công nghiệp nền tảng quốc gia, đáp ứng được nhu cầu trong nước và tăng nhanh xuất khẩu.
Về hỗ trợ vay vốn, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết, Bộ Công Thương đã đề xuất Bộ Tài chính rà soát, cập nhật và có chính sách điều tiết thuế nhập khẩu phù hợp đối với một số mặt hàng thép có biến động lớn về giá; đề xuất Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo, khuyến khích các ngân hàng thương mại triển khai các gói tín dụng ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, sản xuất, kinh doanh thép.
Đối với vấn đề thép nhập khẩu ồ ạt vào thị trường, Bộ Công Thương đã thường xuyên rà soát, đánh giá tác động của hoạt động nhập khẩu thép, tiếp nhận phản ánh của cộng đồng doanh nghiệp kịp thời bảo vệ doanh nghiệp tại thị trường nội địa thông qua các biện pháp phòng vệ thương mại (chống bán phá giá, chống lẩn tránh thuế, chống trợ cấp, tự vệ thương mại) và biện pháp kĩ thuật. Bên cạnh đó, Bộ cũng thực hiện hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu thép ứng phó kịp thời, hiệu quả với các vụ việc phòng vệ thương mại sản phẩm thép ở nước ngoài.
Đồng thời, cơ quan này cũng khẳng định đã, đang và sẽ tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thép phát triển thị trường, đặc biệt là mở rộng, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu; đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại; xây dựng, bảo vệ thương hiệu cho ngành thép của Việt Nam; Hỗ trợ doanh nghiệp bảo vệ lợi ích tại thị trường trong nước và ngoài nước…
Kết luận Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chỉ đạo các nhiệm vụ, giải pháp căn cơ, toàn diện và hiệu quả để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh ngành vật liệu xây dựng, như đẩy mạnh đầu tư công, xây dựng kết cấu hạ tầng chiến lược, phát triển nhà ở xã hội, sử dụng cầu cạn bê tông cốt thép; các cơ quan Nhà nước tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách; các doanh nghiệp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao và tái cơ cấu về quản trị, tài chính, đầu tư và nguyên liệu.
Nguồn: https://baochinhphu.vn/